Pages

Thứ Bảy, 22 tháng 8, 2020

Giáo dục trước đây - bây giờ

 Trước đây, chúng ta thường học trước, làm sau. Bây giờ làm trước, trải nghiệm trước sau đó mới học thì cái học vào hơn. Cho nên, các trường đại học cần cho các em làm nhiều hơn, thậm chí cho các em làm trước rồi dạy sau.

Trước đây, người thầy giảng dạy 100%. Bây giờ người thầy có thể không phải là người thầy chuyên nghiệp mà là những doanh nhân, chuyên gia tham gia vào giảng dạy.

Trước đây giáo viên là thầy. Bây giờ người thầy có lẽ là huấn luyện viên (HLV); vì vậy, trò làm là chính và mô hình này có điểm rất hay ở chỗ, trò bao giờ cũng giỏi hơn HLV.

Trước đây chúng ta dạy - học, làm nghiên cứu trong thế giới thực là các phòng thí nghiệm rất tốn kém vật tư, vật liệu, thời gian. Bây giờ chúng ta đã có thể nhìn thế giới thực từ thế giới ảo, cho nên chúng ta có thể biến môi trường ảo thành môi trường mô phỏng hơi hướng thế giới thực vừa nhanh, vừa tiết kiệm.

Trước đây chúng ta dạy sinh viên chuyên sâu từng chuyên ngành. Bây giờ thì lại theo hướng đa ngành, mở rộng cơ hội liên kết giữa các ngành và kỹ năng học giữa các ngành.

Trước đây, sinh viên học trong trường. Bây giờ, học ở ngoài các tốt và các trường trong nước không chỉ liên kết với nhau mà còn liên kết với các trường nước ngoài cũng như các doanh nghiệp.

Trước đây, chúng ta chỉ cần ngôn ngữ giữa người với người (học tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Pháp...) Bây giờ chúng ta cần biết ngôn ngữ người - máy, bởi ở thời CMCN 4.0, máy làm là chính.

Trước đây chúng ta dạy học sinh kỹ năng giải quyết vấn đề là chính. Bây giờ có lẽ học cách tìm ra vấn đề là quan trọng nhất vì có những câu hỏi mới có sự sáng tạo.

Trước đây, chúng ta học về những cái thế giới đã làm. Bây giờ chúng ta học về cái chưa ai là.

Trước đây, chúng ta học sự tiệm cận, tiến hóa tốt hơn từng ngày. Bây giờ chúng ta học những đột phá, những cái mới.

Trước đây, thực là quan trọng, nhà trường dạy cái thực là chính. Bây giờ mọi cái được ảo hóa và chúng ta dạy về thế giới ảo.

Trước đây, nghe theo là quan trọng. Bây giờ chúng ta cần hơn tư duy phản biện.

Trước đây, chúng ta dạy sinh viên học "What?" (cái gì), "How?" (thế nào). Bây giờ có lẽ học "Why?" là quan trọng vì có biết "tại sao" thì chúng ta mới có thay đổi và sáng tạo...

Trước đây, tài sản quan trọng nhất của trường đại học là sách, thư viện, giảng đường. Bây giờ, sách đã có trên mạng thì tài sản quan trọng nhất của trường đại học là phòng lab (phòng thí nghiệm), hạ tầng máy móc thậm chí phải giống như một nhà máy. Chắc ít ai trong chúng ta nghĩ đến việc nghĩ trường đại học phải có hạ tầng như một nhà máy để sinh viên có thể thực hiện quá trình sáng tạo trong các "nhà máy" đó.

Trước đây, tiền lương thường có mặt bằng. Bây giờ, nhân sự cạnh tranh chất lượng khác biệt dẫn đến mức lương khác biệt, chênh lệch nhiều.

Trước đây, cạnh tranh là chúng ta làm giống người khác nhưng tốt hơn. Bây giờ, cạnh tranh là sự khác biệt. Trước đây, chúng ta phấn đấu trở thành trường đại học như MIT (Học viện công nghệ số 1 thế giới tại Mỹ) nhưng bây giờ chúng ta phấn đấu trở thành trường đại học làm khác, học khác, dạy khác và... hơn MIT. Và các trường đại học Việt Nam phải cố gắng để nhận bất kì sinh viên giỏi nào của các quốc gia trên thế giới.

Trước đây, chúng ta tìm giáo viên trong số những người giáo viên thì cơ hội tìm kiếm giáo viên là không lớn. Bây giờ chúng ta tìm giáo viên là tất cả những người có chuyên môn đại học, có đam mê dạy học.

Trước đây, chúng ta tìm người trong số 90 triệu người Việt Nam. Bây giờ chúng ta tìm người trong số 7 tỷ người trên thế giới thì cơ hội lớn hơn rất nhiều.

Trước đây, lương giáo viên được định nghĩa một cách hành chính vì vậy chúng ta tìm người chất lượng tương đối như nhau. Bây giờ giáo viên được trả lương theo thị trường (trong nước và thế giới). Do vậy, trường đại học có thể tuyển bất cứ giáo viên nào trên thế giới về giảng dạy.

Trước đây, người giỏi nhất là giỏi nhất. Bây giờ, người giỏi nhất có thể là người dốt nhất vì họ có xu thế ít học hỏi người xung quanh mình; trong khi người dốt lại đi khắp nơi trên thế giới để tìm ra những ai giỏi nhất trên thế giới. tích hợp họ lại. Và đó cũng là cách để tập đoàn Viettel phát triển và khẳng định vị thế của mình.

Trước đây, sinh viên ra trường là mắt xích trong thị trường lao động, trong các nhà máy. Bây giờ sinh viên ra trường trở thành giám đốc của công ty do chính mình thành lập, tập hợp các nguồn lực khác nhau để gây dựng sự nghiệp riêng.

(Nguyễn Mạnh Hùng)

Thứ Bảy, 18 tháng 1, 2020

Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng: “Viettel là nhà mạng duy nhất trên thế giới sản xuất được thiết bị viễn thông”

Theo Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng, Viettel đang là nhà mạng duy nhất trên thế giới sản xuất được thiết bị viễn thông, vì Viettel thấy rằng mình là người hiểu rõ nhất nhu cầu khách hàng và mạng lưới, giống như câu chuyện của AT&T cách đây 40 năm.
Thông tin trên được Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng chia sẻ tại sự kiện kết nối chính thức lần đầu tiên trên mạng di động 5G tại Việt Nam của Tập đoàn Viettel ngày 17/1.
Bộ trưởng cho biết: "Trước đây, chúng ta có ước mơ ngày nào đó, người Việt Nam sẽ sản xuất ra được các thiết bị quân sự. Vì thế, sau khi học xong về nước, tôi đã được giao nhiệm vụ sẽ phải làm ra được các thiết bị này. Hiện nay, gần như tất cả các thiết bị thông tin quân sự đều do Việt Nam sản xuất, chúng ta không phải nhập khẩu thiết bị khoảng 5 năm nay. Đặc biệt, thiết bị quân sự của Việt Nam không thua kém gì so với thế giới, đạt tiêu chuẩn cao nhất và thậm chí có thể xuất khẩu”.
Khi sang làm lĩnh vực viễn thông, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng lại có một ước mơ khác, đó là sản xuất được mạng lưới viễn thông Việt Nam bằng thiết bị của Việt Nam. Bộ trưởng khẳng định đó là khát khao cháy bỏng không chỉ của thế hệ những người như ông mà còn của thế hệ trước đó như nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện Mai Liêm Trực hay Bộ trưởng Bộ BCVT (tiền thân của Bộ TT&TT hiện nay) Đỗ Trung Tá. “VNPT trước đây đã nỗ lực hiện thực ước mơ ấy bằng việc liên doanh với doanh nghiệp nước ngoài. Còn với Viettel, sau khi làm dịch vụ viễn thông và trở thành công ty lớn, có tiềm lực thì đã bắt đầu thực hiện việc này”, Bộ trưởng nói.
Hiện nay, Viettel là công ty duy nhất của thế giới sản xuất thiết bị viễn thông. Trước đây, AT&T cũng vừa là công ty viễn thông, sản xuất thiết bị viễn thông và IT, nhưng do nước Mỹ muốn đẩy mạnh cạnh tranh nên bắt AT&T tách làm 3 công ty con. Vì thế, gần 40 năm nay, trên thế giới, công ty sản xuất thiết bị viễn thông và các nhà mạng là những công ty riêng, độc lập nhau. “Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, Viettel thấy rằng do mình là công ty cung cấp dịch vụ nên hiểu rõ nhất nhu cầu khách hàng, mạng lưới của mình là cũng là đơn vị có điều kiện nhất vì mạng lưới viễn thông chính là phòng thí nghiệm lớn nhất. Vì thế, Viettel quay trở lại mô hình giống như AT&T của Mỹ cách đây 40 năm và trở thành công ty viễn thông đầu tiên trên thế giới làm được việc này”, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng khẳng định.
Mặc dù vậy, trên thế giới ở chừng mực nào đó còn có nhà mạng NTT Docomo của Nhật Bản do những yêu cầu cao về thiết bị đầu cuối nên đã bắt các công ty sản xuất phải làm theo họ.
Cũng theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, Việt Nam đã làm chủ khoảng 75% thiết bị mạng lưới viễn thông và mục tiêu đến năm 2020-2021 tất cả các thiết bị đều do Việt Nam sản xuất. “Đây là niềm tự hào lớn và hiện thực hoá khát vọng của nhiều thế hệ, nhất là khi năm 2020 là năm quốc gia chuyển đổi số, hướng đến việc Việt Nam trở thành quốc gia số, trong đó hạ tầng số là quan trọng nhất để đảm bảo việc ATTT”, Bộ trưởng nói.
Chưa dừng lại ở đó, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng bày tỏ niềm tự hào lớn khi Việt Nam gia nhập top 5 nước đầu tiên sản xuất được thiết bị mạng 5G, sau Thuỵ Điển (Ericsson), Phần Lan (Nokia), Trung Quốc (Huawei, ZTE) và Hàn Quốc (Samsung). Tuy nhiên, Bộ trưởng Bộ TT&TT cho rằng chặng đường phía trước còn rất dài để có thể sản xuất, thương mại hoá trong nước và quốc tế vì ngoài câu chuyện công nghệ còn liên quan đến marketing…
Lộ trình phát triển mạng 5G của Viettel ngày hôm nay có điều chỉnh một số thứ, đầu tiên là việc tháng 6/2020 phải chính thức thương mại hoá thiết bị 5G Microcell vì thời điểm này Việt Nam dự kiến cấp phép băng tần mạng 5G. “Tôi có niềm tin vững chắc là tuyên bố của Thủ tướng Chính phủ về việc năm 2020 Việt Nam sẽ thương mại hoá mạng 5G bằng thiết bị của Việt Nam sẽ thành hiện thực”, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh.
Ngoài ra, trong Triển lãm Di động toàn cầu vào tháng 2/2020 tại Barcelona (Tây Ban Nha), Viettel phải mang thiết bị 5G của mình sang để trình diễn, minh chứng với thế giới Việt Nam là nước thứ 5 sản xuất được thiết bị 5G.
Tiếp theo, tháng 9/2020, triển lãm số thế giới năm 2020 được tổ chức tại Việt Nam sẽ có nhiều đại gia trên thế giới tham dự và Viettel sẽ có một gian hàng lớn để trình diễn thiết bị 5G.
Chia sẻ tại sự kiện, Bộ trưởng Bộ KHCN Chu Ngọc Anh khẳng định, việc thực hiện cuộc gọi 5G đầu tiên trên thiết bị của Viettel sản xuất là minh chứng sinh động cho tinh thần “Bứt phá” theo chỉ đạo của Thủ tướng. “Tháng 5/2019, tôi đã được dự kết nối chính thức lần đầu tiên trên mạng di động 5G tại Việt Nam giữa Viettel và Tập đoàn Ericsson. Chỉ mất 8 tháng để Viettel có thể thử nghiệm trên thiết bị do mình sản xuất là quá trình nhanh không thể tưởng tượng dù đây là một chặng đường cam go, nhưng đã có rất nhiều sáng tạo, tích luỹ từ năm 2011”, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh nói.
Bên cạnh đó, Bộ trưởng Chu Ngọc Anh bày tỏ niềm tự hào vì chúng ta đã có thể làm chủ từ mạng lõi, mạng truy cập… và tin rằng sắp tới Viettel sẽ phát triển mạnh mẽ. “Bộ KHCN cùng chung tay với Bộ TT&TT cũng như các doanh nghiệp công nghệ trong chặng đường sắp tới”, Bộ trưởng Bộ KHCN chia sẻ.
Phát biểu tại sự kiện thực hiện cuộc gọi 5G đầu tiên trên thiết bị của Viettel, ông Lê Đăng Dũng, Quyền Chủ tịch, Tổng Giám đốc Tập đoàn Viettel nhấn mạnh, mạng 5G là yếu tố quyết định thành công của một xã hội số, khi mà các nước đều dùng mạng 5G để chứng minh khoa học - công nghệ của nước nào mạnh hơn, nhất là đối với công nghệ gốc. “Chính vì vậy, Viettel xác định mạng 5G là dự án chiến lược tương tự như các dự án thiết bị quân sự và tạo điều kiện để dự án này thành công. Tuy nhiên, Viettel mong muốn cơ quan quản lý sẽ tạo điều kiện giải quyết về tài chính cũng như các quy định theo hướng làm đến đâu, quản lý đến đó thay vì quản lý đến đâu làm đến đó”, ông Dũng nói.